Đọc truyện kiếm hiệp: Bích Huyết Kiếm
Hồi 17: Nhà Kỳ Lạ, Tường Vây Năm Vòng Không Cửa Ngõ-khách Quái Dị, Đến Từ Bốn Phương Trộm Khố Ngân
Không bao lâu, Thừa Chí và các hảo hán đã tới thành phố Bắc Kinh. Lúc ấy mùa thu vừa qua, tiết đông mới tới, Thừa Chí đưa tiền cho Hồng Thắng Hải mua một căn nhà ở phố lớn. Vì định làm thân với một vài vương tôn công tử để làm nội ứng cho Sấm Vương, nên phải trang hoàng cho lịch sự.
Ngày hôm đó, Thanh Thanh đang chỉ huy bọn người nhà quét dọn bố trí bận rộn khôn tả. Thừa Chí một mình đi dạo chơi các phố lớn trong nội thành. Đi tới một nơi, chàng thấy có rất nhiều lính coi kho bạc của Bộ Hộ tay cầm khí giới canh gác cẩn mật.
Nghe những người đứng xem nói, chàng mới hay tiền thuế má ở miền Nam vừa vận tải đến, đang gởi vào trong kho ngân khố. Chàng nghĩ, số vàng bạc này là huyết mạch căn bản của vua Sùng Chính đây. Vừa nghĩ, chàng lảng ra đằng xa để quan sát đường lối vào ngân khố, thì bỗng trông thấy hai cái bóng đen ở trên mái nhà ngân khố nhảy lên, thân pháp nhanh nhẹn vô cùng, chỉ trong chớp mắt đã lẩn khuất về phía Đông bắc rồi.
Ngạc nhiên vô cùng, Thừa Chí nghĩ: “Ban ngày ban mặt thế này, chẳng lẽ có người dám trộm cắp tiền bạc của ngân khố hay sao? Ta phải đuổi theo xem hai người đó là anh hùng hảo hán của bang phái nào mới được!”
Nghĩ đoạn, chàng liền chạy theo về phía Đông bắc, thấy bóng người đã mất hút nhưng phía đó chỉ có một con đường thôi, chàng vội giở khinh công do Mộc Tang đạo trưởng truyền dạy cho, chạy nhanh như ngựa phi, chỉ đuổi theo giây phút đã trông thấy hai người đang chạy ở phía đằng trước. Sợ chúng hay biết, chàng chạy rất nhẹ chân, nhưng vẫn nhanh như cũ.
Một lát sau, chàng chỉ còn cách hai người kia độ một trượng thôi. Nhìn kỹ, chàng mới hay hai người nọ rất bé nhỏ, mặc áo đỏ, trên đầu có hai cái đuôi sam nho nhỏ. Chúng là hai thằng nhỏ trạc độ mười ba, mười bốn thôi. Mỗi tên khuân vác hai túi đồ trên vai, có vẻ khá nặng nề, chắc là tiền bạc của ngân khố cũng nên? Tuy chúng ít tuổi như thế, khuân vác hai túi đồ khá nặng, mà vẫn còn chạy nhanh như bay, thật là hiếm có.
Không bao lâu, hai thằng bé áo đỏ đã chạy tới chân thành, Thừa Chí nghĩ: “Xem chúng bay ra ngoài thành bằng cách nào?”
Ngờ đâu, chúng không ngừng bước, cứ thế xông thẳng ra ngoài cửa thành. Bọn lính canh gác cổng thành chỉ thấy thoáng một cái, hai cái gì đo đỏ đã ở bên cạnh lướt qua, đang kinh ngạc thì lại thấy một cái bóng xám lướt qua, ra khỏi cổng thành còn nhanh hơn hai cái bóng đỏ kia. Chờ tới bọn lính định thần trông thấy rõ hai cái bóng đỏ là hai đứa bé và một người đàn ông mặc áo màu xám thì ba người đã chạy thật xa rồi.
Nhờ khinh công lợi hại, Thừa Chí theo dõi bấy nhiêu lâu mà hai thằng bé không hay biết gì cả. Ra khỏi thành chạy thêm bảy, tám dặm đường, hai thằng nhỏ tới một căn nhà lớn, liền nhảy ngay vào.
Tới gần, Thừa Chí thấy căn nhà đó xung quanh xây một bờ tường đen cao chừng hai trượng, nhưng không có cửa ngõ. Bờ tường đó sơn đen, trông rất ghê rợn và kỳ lạ. Nhứt là nhà không cửa ngõ, thật thiên hạ hiếm có. Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, nhảy luôn vào bên trong, không ngờ chân tường bên trong lại sâu hơn bên ngoài ba thước. Nghĩa là bên ngoài từ chân lên tới bờ tường cao hai trượng nhưng bên trong thì cao những hai trượng ba. Nếu không có võ công tuyệt đỉnh thì chàng đã bị ngã lăn đùng ra rồi. Bên trong lại có một bờ tường màu trắng xây xung quanh nhà như bên ngoài, nhưng cao hơn tường ngoài ba thước.
Khi chàng nhảy qua bờ tường trắng đó lại phác giác chân tường ở trong cũng sâu xuống ba thước, nhưng lần này chàng đã đề phòng không bị giựt mình như lần nhảy đầu. Trước mặt bờ tường thứ hai là bờ tường sơn màu xanh, bờ tường này cao hơn bờ tường thứ nhứt ba thước, và chân tường ở trong cũng sâu xuống ba thước như hai bờ tường trước.
Hết bờ tường thứ ba sơn màu xanh lại tới bờ tường thứ tư sơn màu vàng và bờ tường thứ năm sơn màu đỏ. Bờ tường sau càng cao những ba trượng rưỡi, khinh công giỏi đến thế nào cũng không thể nhảy qua được. Thừa Chí liền dùng “Bích Hổ Du Tường công” leo lên trên bờ tường chót. Chàng nghĩ: “Hai thằng nhỏ quyết không thể nào vác tiền bạc nặng như thế mà nhảy qua được bờ tường cao như thế này. Tất có cửa bí mật để cho chúng vào. Ta không quen biết chủ nhân, nay đột nhiên dò thám bí mật, tìm tòi cửa ngõ như thế này không tiện.”
Chàng leo lên tới trên bờ tường đỏ, nhìn vào bên trong thấy có một tòa nhà ba lớp, năm căn, nhưng yên lặng như tờ không thấy có một hình bóng người nào cả.
Chàng liền lớn tiếng kêu gọi:
– Hậu sinh đường đột, tự tiện nhảy vào quý trang, nhứt tâm muốn được bái kiến quý chủ nhân. Chẳng hay có cho hậu sinh được yết kiến hay không?
Chàng vừa nói dứt lời, đã nghe tiếng ở trong năm bờ tường dội ra. Nhưng trong nhà vẫn không thấy có tiếng người trả lời. Chờ giây lát, chàng lại kêu gọi một lần như trước nữa, bỗng trong lớp nhà thứ ba có mười mấy con chó lớn, dữ tợn như sài lang nhảy xổ ra, nhe răng múa nanh, lớn tiếng sủa, trông ghê sợ. Thấy hai thằng nhỏ võ công cao cường, Thừa Chí chắc chủ nhân phải là anh hùng hiệp sĩ, nên muốn kết làm bạn hữu. Bấy giờ thấy trong nhà thả chó ra sủa như vậy, chàng biết chủ nhân không muốn tiếp, liền nhảy ra ngoài, trở về nhà luôn.
Chàng bước chân vào tới nhà trong thấy Thanh Thanh bận rộn tíu tít, nào mướn người trồng hoa, nào mua hoa tươi, nào xây sàn gạch hoa, nào quét vôi sơn cửa, trang hoàng căn nhà trở nên một biệt trang rất hào hoa. Thừa Chí mừng thầm nghĩ rằng: “Không ngờ nàng lại là nội trợ tài ba lỗi lạc đến thế? ở Triết Giang lúc mới gặp nàng trên chiếc thuyền trông thật là hung tợn. Không đầy nửa năm, nàng đã thay đổi tính nết hiền hậu đến thế này rồi.”
Căn nhà đó rất rộng, mỗi người được dùng bốn, năm căn phòng, cả hai con Đại Oai và Tiểu Oai cũng được ở trong vườn hoa một cách thư thái dễ chịu. Cơm chiều xong, Thừa Chí kể lại cái nhà kỳ lạ cho mọi người nghe. Ai nấy cũng phải ngạc nhiên vô cùng, và không thể đoán ra được chủ nhân căn nhà đó là người như thế nào?
Trở về phòng nghỉ ngơi, Thừa Chí vẫn phải xếp đặt kế hoạch cần làm ở trên Bắc Kinh này. Chàng nghĩ: “Việc cần giải quyết mọi nỗi đau khổ cho nhân dân. Việc thứ hai là hành thích vua Sùng Chính để trả thù cho cha mình. Nhưng biết tên bạo chúa đó không khó, chỉ vì sư phụ đã nói: Hiện giờ bọn gian thần đang đắc thế, nếu nhà vua chết, quân dân Thanh thế nào cũng thừa cơ đánh vào Quan ải. Cho nên việc trả thù này phải chờ Sấm Vương khởi sự, đánh tới Kinh Đô đã. Vậy những việc cần phải tiến hành trước tiên là làm hư hại gốc rễ của triều đình, thám thính sự thật hư của nhà vua, để cung cấp Sấm Vương.”
Nghĩ đoạn, chàng ghi ngay vào giấy tờ rồi mới lên giường đi ngủ.
Sáng sớm ngày hôm sau, trời mưa tuyết, trong lúc mọi người đang ăn cơm sáng, bỗng có gia đinh hấp tấp vào thưa với Thanh Thanh rằng:
– Tiểu thư, có người đem một bức họa và một lọ hoa đến biếu.
Thừa Chí hỏi:
– Hai món đồ này khá cổ nhá đấy! Ai biếu cho thế?
Không thấy danh thiếp của người biếu. Thanh Thanh phong ba lạng bạc lì xì, sai tên gia đinh đem ra tặng cho người đem lễ vật tới, và hỏi rõ xem người hiểu tên họ là gì? Một lát sau gia đinh vào bẩm rằng:
– Người đem lễ vật tới biếu đã đi mất dạng rồi.
Ai nấy đều cho người đó đem biếu nhầm nhà cũng nên. Hồng Thắng Hải nói:
– Hiện giờ, Viên tướng công tiếng tăm lừng lẫy khắp thiên hạ, lần này tới Bắc Kinh, tin đồn đã loan truyền khắp giang hồ rồi Tiểu nhân chắc lễ vật này là của những người một đem biếu cũng nên đấy.
Tới giữa ngọ, lại có một người gánh một mâm rượu thịnh soạn tới. Mọi người đều nghi ngờ các món ăn có chất độc, liền cho chó ăn thử, thấy không việc gì mới yên tâm. Buổi chiều lại tiếp tục có người đem đồ đạc đến biếu, toàn là dụng cụ gia dùng cả.
Thanh Thanh nói:
– Nếu nhà ta có thêm cái đèn bát giác treo ở giữa cửa thì hay quá.
Nửa tiếng đồng hồ sau, đã có người đem một cái đèn bát giác thật đẹp đến biếu liền. Lại có người đem tới rất nhiều vóc lụa, nhiễu, gấm nhiễu, gấm, để may quần áo cho mọi người, và có đủ cả giầy, mũ, khăn, vân vân. Còn phấn sáp thượng hạng để cho Thanh Thanh dùng cũng có người đem tới biếu. Thiết La Hán túm lấy ngực tên phổ ky đem áo, mũ tới quát hỏi:
– Tại sao nhà người lại biết ở đây có một vị đầu đà, mà đem cả áo cà sa đến cho người ta dùng thế này.
Tên phổ ky bị túm ngực, hoảng sợ vô cùng, giọng run run cầm cập, trả lời rằng:
– Tiểu nhân không biết tí gì. Sáng ngày hôm nay, bỗng có người tới tiểu điếm mua và đặt làm các thứ này, và dặn làm xong thì đem tới đây. Ông ta lịch sự lắm, không mặc cả nửa lời, trả tiền rồi đi liền.
Mọi người đang bàn tán thì Thanh Thanh bỗng cố ý lên tiếng nói:
– Người biết lễ vật đó có lẽ hiểu biết hết ý muốn của chúng ta. Nếu bây giờ họ biếu tôi một chuỗi hạt trai thì tốt quá.
Một lát sau, người đầy tớ đi khỏi khách sảnh, Thanh Thanh liền bảo với Hồng Thắng Hải rằng:
– Anh thử theo dõi xem y đi đâu.
Không bao lâu, người đầy tớ nọ quay trở lại hầu hạ. Còn Hồng Thắng Hải hơn một tiếng đồng hồ sau mới quay trở về. Vừa bước chân vào tới cửa đã thấy người làm tiệm bán châu báu đem hai chuỗi hạt trai lớn tới biếu rồi. Cầm hai chuỗi hạt, Thanh Thanh vào thẳng trong nhà. Thừa Chí và Hồng Thắng Hải cũng vào theo.
Hồng Thắng Hải nói:
– Người đầy tới đó ra ngoài cửa nói với ông già ăn xin vài lời rồi trở vào ngay. Tiểu nhân liền đi theo người ăn xin đó.
Thanh Thanh nổi giận nói:
– Người đầy tớ nhà ta và tên ăn xin lén lút như vậy đều không phải là người tử tế gì. Lát nữa, tôi sẽ cho chúng nếm thử một chút lợi hại thì chúng mới chừa cái thói ấy đi.
Hồng Thắng Hải nói:
– Cô nương đoán không sai, tên ăn xin đi qua mấy con đường thì gặp một tên chó săn công sai đi tới. Hai người trò chuyện với nhau vài câu, tên ăn xin quay trở lại ngồi ở trước cửa nhà ta.
Thanh Thanh hỏi:
– Thế rồi anh theo dõi luôn tên chó săn nọ phải không?
Hồng Thắng Hải đáp:
– Vâng, tên chó săn ấy không trở về nha môn, lại đi tới một căn nhà lớn ở đường hẻm nọ. Tiểu nhân nhìn xung quanh không thấy bóng người, liền nhảy lên trên nóc nhà ngó xuống. Thì ra trong căn nhà đó có mười mấy tên công sai đang tụ họp, trong đó có một ông già chột một mắt. Thấy mọi người gọi y là Đơn lão sư, hình như y là thủ lãnh của bọn chúng thì phải. Tiểu nhân sợ chúng phát giác, liền trở về ngay.
Thanh Thanh nói:
– Giỏi thật, tin tức của chúng kể cũng tinh thông đấy! Chúng ta vừa tới Bắc Kinh bọn chó săn đã hay tin ngay. Nhưng nếu chúng muốn sanh sự với chúng ta thì thật không may cho chúng.
Thừa Chí nói:
– Có một điều lạ lùng là, tại sao chúng cứ biếu xén chúng ta như thế này để làm gì? Như vậy có khác gì nói trắng ra cho chúng ta biết là bọn chúng không những công sai ở kinh đô này xưa nay vẫn tài ba lỗi lạc hơn công sai ở các tỉnh, không khi nào chúng lại chịu làm một việc ngu dại như thế này? Vậy, chúng làm như thế này để làm gì?
Nói đoạn, chàng sai Hồng Thắng Hải ra mời Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam, và Thiết La Hán vào bàn chuyện. Bàn tán một lát lâu, không ai đoán ra nổi bọn công sai biếu xén như vậy có dụng ý gì?
Thanh Thanh nói:
– Những đồ đạc do tiền bạc bất nghĩa của chúng mua, chúng ta không nên lấy thì hơn.
Đêm hôm đó, Thanh Thanh họp cùng chàng Câm, Thiết La Hán, Hồ Quế Nam, và Hồng Thắng Hải đem những đồ đạc của bọn công sai biếu xén tới căn nhà lớn mà Hồng Thắng Hải phát giác hồi sáng để trả lại. Bọn công sai ở trong nhà nghe tiếng động hẳn hòi nhưng không thấy tên nào ló mặt ra cả.
Sáng ngày hôm sau, Thanh Thanh cho tên đầy tới vẫn thường liên lạc với tên ăn xin già nghỉ việc liền nhưng nàng trả đủ tiền lương hẳn hòi. Tên đầy tớ đó quỳ xuống vái lạy mấy cái, rồi đi thẳng, chớ y không tỏ vẻ bất mãn gì cả. Thừa Chí ra lệnh cho tất cả mọi người cẩn mật, để chờ xem có biến động gì không? Quả nhiên hôm đó không thấy có người đem đồ đến biếu xén nữa. Tối hôm đó, trời lại mưa tuyết. Sáng sớm ngày hôm sau, Hồng Thắng Hải vẻ mặt kinh hãi, chạy vào bẩm báo:
– Lạ thật, không biết ai đã quét sạch tất cả tuyết phủ ở trước nhà ta rồi.
Thừa Chí nói:
– Hình như bọn chó săn vẫn cứ muốn lấy lòng chúng mình thì phải.
Thanh Thanh cười nói:
– À, em biết rồi.
Mọi người vội hỏi tại sao? Thanh Thanh nói tiếp:
– Chắc bọn chúng sợ chúng ta ở trên Bắc Kinh này quấy nhiễu thì chúng chịu không nỗi, mới đến đây lấy lòng và làm quen với chúng ta chớ gì?
Sa Thiên Quảng nói:
– Cô nói cũng hơi đúng đấy nhưng tôi làm cường đạo đã bao năm mà chưa hề nghe câu chuyện lạ như thế này bao giờ.
Trình Thanh Trúc bỗng lên tiếng nói rằng:
– À, tôi nhớ ra rồi. Tên công sai một mắt biệt hiệu là Độc Nhãn Thần Long Đơn Thiết Sinh. Y về hưu đã lâu nên tôi không đoán ra.
Mấy ngày sau, mọi người thấy không có chuyện lạ xảy ra nữa, dần dần cũng quên bẵng câu chuyện ấy đi. Ngày hôm đó là Tết Đông Chí, mọi người đang ở khách sảnh nhậu nhẹt chuyện trò, bỗng gia đinh bưng vào một cái khay trong đó có một tấm danh thiếp đại hồng thật lớn. Trên thiếp đề: Văn sinh Đơn Thiết Sinh thỉnh an, bảy chữ và kèm thêm tám thứ lễ vật tám màu sắc.
Hồng Thắng Hải liền lấy danh thiếp của Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, và Sa Thiên Quảng hồi bái, còn lễ vật thì trả lại không nhận. Sáng sớm ngày hôm sau, gia đinh lại đem danh thiếp của Đơn Thiết Sinh vào.
Thừa Chí nói:
– Mời ông ta vào chơi mau!
Gia đinh nói:
– Cái ông họ Đơn ấy kỳ lạ quá. Mới sáng tinh sương đã cầm danh thiếp tới, chỉ nói “Thỉnh anh Viên tướng công” rồi đi ngay. Cháu đã mời ông ta vào ngồi chơi xơi nước, nhưng ông ta không vào và đi liền.
Liên tiếp ba ngày liền, cứ trời mới sáng tỏ, là Đơn Thiết Sinh cầm danh thiếp đến thỉnh an.
Trình Thanh Trúc nói:
– Trong võ lâm phía Bắc này, Độc Nhãn Long Đơn Thiết Sinh cũng có đôi chút địa vị và tên tuổi. Không hiểu tại sao y lại giở trò lén lút như thế? Để sáng mai, để đi kiếm y hỏi xem.
Hồ Quế Nam nói:
– Hành động của y không có chút ác ý gì cả. Thế mới khó hiểu chớ?
Thiết La Hán bỗng lớn tiếng nói:
– Tôi biết y định làm gì rồi.
Ngày thường y rất ngô nghê ngốc nghếch, nay bỗng có sáng kiến hơn người, ai nấy đều ngạc nhiên vô cùng hỏi:
– Y định làm gì thế?
Thiết La Hán đáp:
– Y thấy Viên tướng công anh tuấn, võ công lại cao siêu, tên tuổi lại lừng lẫy, cho nên y muốn đem con gả cho cũng nên đấy.
Thấy tên ngốc phát biểu ý kiến ngộ nghĩnh quá, không ai có thể nhịn được, đều cười ồ cả lên. Thiên Quảng đang uống nước, buồn cười đến nỗi phun cả nước vào người Hồ Quế Nam. Vừa lau áo, vừa cười, Hồ Quế Nam nói:
– Con gái Độc Nhãn Long chắc cũng độc nhỡn như y. Có khi nào Viên tướng công lại chịu lấy tiểu thơ chột mắt như thế?
Thiết La Hán trợn trừng mắt lên hỏi:
– Sao anh lại biết rõ đến thế?
Hồ Quế Nam cười đáp:
– Tại sao anh biết rõ y có con gái?
Mọi người đùa diễu một hồi, Thanh Thanh không nói năng gì cả, nhưng trong lòng có vẻ không vui. Nàng nghĩ thầm: “Tên Độc Nhãn Long bậy thật, nhỡ y muốn gả con gái cho Thừa Chí thật thì sao?”
Đêm hôm ấy, nàng lấy bảy tám tờ giấy trắng vẽ hình Độc Nhãn Long Đơn Thiết Sinh đạo chích. Chờ tới đêm khuya, nàng phi thân tới bảy tám nhà giàu có, ăn trộm vàng bạc, châu báu, rồi mỗi nhà nàng dán một tờ giấy có vẽ hình và chữ nói trên.
Sáng sớm ngày hôm sau, Hồng Thắng Hải tới gõ cửa phòng của Thanh Thanh và nói:
– Tiểu thơ! Độc Nhãn Long đã tới đấy ạ. Hiện giờ Viên tướng công đang tiếp y ở khách sảnh.
Thanh Thanh liền cải nam trang đi ra ngoài khách sảnh, quả nhiên thấy Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, và Sa Thiên Quảng đang tiếp một ông già gầy gò, bé nhỏ, uống trà. Thừa Chí liền giới thiệu nàng với người nọ. Thanh Thanh thấy Đơn Thiết Sinh đã ngótsáu mươi tuổi, râu tóc bạc phơ, một con mắt bên trái lóng lánh sáng quắc, trông rất thông minh mẫn tiệp.
Đơn Thiết Sinh nói:
– Tiểu nhân làm như vậy tự biết đường đột vô cùng, nhưng sự thật đang có việc lớn định nhờ vả Viên tướng công cùng quý vị giúp đỡ cho. Vì không được hân hạnh quen biết quý vị, tiểu nhân mới phải dùng hạ sách như vậy. Xin quý vị thứ lỗi cho.
Nói xong, y quỳ xuống vái lạy. Vội đỡ y dậy, đang định hỏi y nhờ vả việc gì, thì Thanh Thanh đã hỏi trước:
– Tiểu thơ đằng nhà vẫn mạnh giỏi đấy chớ? Sao ông không đưa cô ta đến đây chơi một thể?
Đơn Thiết Sinh ngạc nhiên một lát rồi mới trả lời:
– Tiểu nhân chỉ có một mình thôi ạ. Vợ không có thì lấy đâu ra con với cái?
Thanh Thanh tủm tỉm cười, trở về phòng lấy những vàng bạc, châu báu vừa ăn trộm được, đem trả lại Thiết Sinh và cười nói:
– Muốn đùa giỡn ông, tôi đã lấy trộm những thứ này về. Bây giờ lại phải nhờ ông đem trả lại cho những thất chủ. Xin ông đừng có trách cứ nhé? Nhưng tôi không làm thế thì không sao mời được ông tới đây chơi.
Đơn Thiết Sinh nghĩ thầm: “Cậu đùa giỡn như thế suýt giết hại cái thân già này!”
Mọi người không hiểu, đều ngạc nhiên định hỏi nguyên nhân tại sao, thì bỗng có một tên công sai hấp tấp chạy vào, vái chào mọi người xong liền nói với Đơn Thiết Sinh rằng:
– Đơn lão sư, hôm nay lại mất hai nghìn lạng tiền ngân khố nữa.
Đổi ngay sắc mặt, Đơn Thiết Sinh vội đứng dậy, vừa chào vừa nói:
– Hiện giờ tiểu nhân đang có việc rất cần phải đi điều tra ngay. Lát nữa tiểu nhân trở lại thỉnh an quý vị.
Nói xong, y nhận lấy những tiền bạc, châu báu của Thanh Thanh trao trả, rồi theo tên công sai đi liền.
Chiều hôm ấy, trời lại mưa tuyết thật lớn, Thanh Thanh rủ Thừa Chí cỡi ngựa ra ngoài thành uống rượu thưởng tuyết cảnh ở trên hồ. Hai người không đi chơi chung thế này đã lâu, nhân ngày hôm đó được nhàn rỗi mới cùng đi chơi cho thỏa thích một hôm.
Xung quanh hồ cỏ lau mọc um tùm. Thanh Thanh bày thức ăn ra khay, rót hai chén rượu, rồi cùng Thừa Chí vừa nhậu nhẹt vừa ngắm phong cảnh. Nơi đây xưa nay đã vắng bóng du khách lui tới, bây giờ trời lại mưa tuyết lớn như vậy, thì còn ai đến ngoạn cảnh nữa. Thừa Chí hỏi Thanh Thanh vừa rồi trao trả cái gì cho Đơn Thiết Sinh?
Thanh Thanh vừa cười vừa kể lại câu chuyện đi ăn trộm đêm qua cho Thừa Chí nghe.
Thừa Chí nói:
– Hà! Anh vừa khen ngợi chú hồi này đã ngoan ngoãn nhiều. Ngờ đâu chú vẫn còn tinh nghịch như thế?
Thanh Thanh hỏi:
– Em có thấy khen ngợi bao giờ đâu?
Thừa Chí nói:
– Anh khen chú ở trong đáy lòng, thì chú biết sao được?
Thanh Thanh khoái chí, tươi cười nói:
– Ai bảo tên họ Đơn ấy không lộ diện cứ ngấm ngầm quấy nhiễu chúng ta như thế?
Thừa Chí nói:
– Không biết y nhờ vả chúng ta việc gì?
– Những hạng người như thế thì ta giúp đỡ làm gì cho hoài hơi mất công?
Uống rượu một hồi lâu, hai người nhắc lại chuyện uống rượu thưởng hoa ở nhà họ Ôn, phái Thạch Lương hồi nọ, Thanh Thanh nhớ đến mẹ và cố hương bỗng rầu rĩ muốn khóc. Thừa Chí phải kể chuyện vui cho nàng nghe, nàng mới khuây khỏa phần nào.
Thấy trời sắp tối đến nơi, hai người liền thu xếp chén dĩa, quay vào bờ định trở về nhà, vừa đi tới cái đình ở ven hồ, thấy một tên ăn xin mình trần nằm trên mảnh chiếu rách, Thanh Thanh thương hại liền nói:
– Tội nghiệp thật!
Rồi nàng móc túi lấy một nén bạc ra, để trên mặt chiếu và khẽ nói tiếp:
– Mau đi mua quần áo mặc cho khỏi rét đi. Chớ không trời giá lạnh thế này, lão cảm hàn khốn đấy!
Hai người vừa đi khỏi, bỗng nghe tên ăn xin lẩm bẩm nói:
– Cho lão tiền bạc thật vô ích! Trời có lạnh thêm chút nữa cũng không thể nào rét chết lão già này! Có còn rượu mời lão uống mới phải là người biết điều chớ!
Thanh Thanh cả giận, quay lại định mắng chửi vài câu, Thừa Chí liền cản luôn, vì thấy tên ăn mày cởi trần như vậy mà không thấy giá lạnh tất không phải là người thường, khẽ nói với Thanh Thanh rằng:
– Người này kỳ lạ lắm, chúng ta nên để yên cho y, xem y giở trò gì đã.
Nói với Thanh Thanh xong, chàng liền quay lại nói với tên ăn xin rằng:
– Tôi chỉ có chút rượu nhạt và thức ăn thừa thôi. Nhưng rượu đã nguội, thức ăn lại thức ăn thừa không dám mời lão xơi.
Tên ăn xin liền ngồi dậy, giơ tay ra nói:
– Lão là kẻ ăn mày ăn xin, có quản ngại gì rượu nguội, thức ăn thừa đâu?
Thừa Chí liền đưa ngay ấm rượu uống thừa cho lão ăn xin. Cầm lấy rượu, lão già nọ tu luôn. Thừa Chí và Thanh Thanh thấy lão ăn xin trạc độ bốn mươi tuổi, râu ria xồm xoàm, hai cánh tay đầy những vết xẹo, trông rất dị thường. Uống hết ấm rượu đó, y khen ngợi rằng:
– Rượu Nữ Nhi Hồng Trần Thiệu này khá lâu rồi, hai mươi năm là ít, ngon và thơm lắm!
Thanh Thanh giựt mình kinh hãi nghĩ thầm: “Tên ăn xin này sành rượu thật.”
Nghĩ đoạn, nàng vừa cười vừa nói:
– Lão sành rượu thật, vừa uống đã biết ngay là thứ rượu gì và ra lò bao nhiêu năm rồi.
Tên ăn xin nói:
– Tiếc thay ít quá, uống không đã ghiền!
Thừa Chí nói:
– Nếu lão thích uống ngày mai tôi sẽ đem thật nhiều tới mời lão xơi một bữa thật no say.
Tên ăn xin nói:
– Thế thì còn gì bằng nữa! Vị Tướng công này sảng khoái quá. Con người có học mà có độ lượng như thế, cũng hiếm lắm!
Thấy y ăn nói khác người, Thừa Chí biết y không phải là kẻ ăn xin thường, định hỏi han thêm vài câu, nhưng trời đã tối, chàng liền dắt tay Thanh Thanh ra khỏi cái đình. Lòng hiếu kỳ thôi thúc, Thanh Thanh ngó đầu lại nhìn thấy tên ăn xin ấy đang khòm lưng chăm chú nhìn vật gì ở phía bên trái. Nàng liền tay Thừa Chí nói:
– Y đang nhìn cái gì kia kìa.
Thừa Chí quay lại đưa mắt nhìn và nói:
– Hình như y đang rình bắt một con dím thì phải?
Hai người liền tiến lại gần xem, tên ăn xin vội xua tay bảo hai người đứng ra xa, vẻ mặt trông rất nghiêm trọng. Hai người đưa mắt nhìn theo tầm mắt của tên ăn xin thì thấy một con rắn con, dài chừng nửa thước, từ đầu tới đuôi đều màu vàng ối, nằm trên mặt tuyết lại sáng lóng lánh ánh sáng rọi thêm. Con rắn đó từ từ bò trên mặt tuyết, tên ăn xin cứ theo dõi từng bước một.
Thanh Thanh bỗng chỉ một nơi cách đó độ một trượng, khẽ hỏi:
– Anh xem cái kia có gì kỳ lạ không?
Đưa mắt nhìn theo chỗ tay chỉ của Thanh Thanh, Thừa Chí trông thấy một cái vòng tròn hơi lõm xuống, tuyết chỉ xuống được xung quanh cái vòng ấy thôi, chớ rơi xuống đó là tan ngay, và biến thành một làn hơi khói bốc lên. Chỗ đó hình như bên dươói có để một cái hỏa lò lửa đang cháy vậy. Con rắn nhỏ bò tới cạnh cái vòng đó, không dám vào, cứ bò quanh thêm mấy vòng. Tên ăn xin xua tay bảo hai người không nên tới gần. Hai người đành phải đứng xa chờ đợi xem.
Lúc ấy con rắn nhỏ không bò quanh nữa, cứ hà hơi vào trong một cái lỗ ở giữa cái vòng. Giây phút sau, bỗng nghe “sịt” một tiếng, con vật vội vàng lùi ngay về phía sau. Tiếp theo đó, một con rắn lớn ở trong lỗ bò ra. Thanh Thanh giựt mình, thất thanh kêu la. Tên ăn xin trợn mắt giận dữ nhìn nàng, nếu y không bận tâm về việc rình hai con rắn thì y đã lên tiếng mắng chửi rồi.
Con rắn lớn mình dài hơn trượng, to bằng cánh tay người, toàn thân loang lỗ mấy màu sắc, đầu hình ba góc to hơn nắm tay người, Thừa Chí đã nghe Mộc Tang đạo nhân nói, các loại rắn đầu hình ba góc là độc nhất. Rắn độc phần nhiều bé nhỏ thôi nhưng con rắn độc này lại to lớn như vậy mới hiếm. Vả lại rắn rít tới mùa đông là nằm phục trong hang, ít khi ra ngoài kiếm ăn. Hình như con rắn lớn này bị con rắn nhỏ chọc tức mà nhả xô ra vậy.
Vừa ra khỏi cái hố, con rắn lớn lè lưỡi đỏ dài chừng nửa thước ra, trông thật là ghê sợ. Lúc này, con rắn nhỏ cứ chạy vòng, nhanh nhẹn vô cùng. Có một điều rất lạ là con rắn lớn to gấp con nhỏ hai ba chục lần, nhưng không hiểu tại sao nó lại có vẻ e sợ con nhỏ, không dám đuổi theo, chỉ quấn lại thành một cuộn tròn, ngẩng đầu trợn mắt nhìn kẻ địch. Con rắn nhỏ bò nhanh bao nhiêu, đầu con to ngó theo bấy nhiêu. Lúc này, Thanh Thanh không còn sợ hãi nữa, trái lại nàng còn thích thú là khác. Tên ăn xin tay múa chân nhảy, đang bận lấy những miếng màu vàng trong túi vải rách ra, bỏ vào mồm nhai một lúc rồi lấy ra nặn thành sợi dây để quây xung quanh cái vòng kia.
Thanh Thanh khẽ hỏi:
– Y làm gì thế?
Thừa Chí đáp:
– Có lẽ y đang bố trí để bắt hai con rắn này cũng nên.
Chàng vừa dứt lời, con rắn nhỏ đột nhiên nhảy xổ vào đầu con rắn to. Vì chịu không nổi hơi khói màu đỏ ở mồm con rắn to phun ra, con rắn nhỏ lộn một vòng, lại xuống đất chạy vòng quanh. Có lẽ hơi khói màu đỏ độc lắm, con rắn nhỏ mới không dám tới gần.
Sực nghĩ tới một pho quyền pháp ghi trong “Kim Xà bí kíp.” Pho quyền ấy hơi giống “Bát Quái Du Thân chưởng” nhưng biến hóa phức tạp hơn nhiều. Lúc ấy Thừa Chí tuy đã học biết những thế võ trong pho quyền ấy rồi nhưng chàng không coi trọng lắm.
Lúc này, chàng thấy hai con rắn chiến đấu bỗng nhận xét thấy thế đánh và thế đỡ của hai con rắn kia giống hệt pho võ nói trên. Có lẽ xưa kia, Kim Xà Lang Quân xem rắn chiến đấu mà sáng tác nên pho quyền này chắc? Chăm chú nhận xét từng ly từng tí thân pháp của con rắn nhỏ, chàng dần dần lãnh ý hội thần ngay. Chàng nhận thấy thân pháp con rắn nhỏ còn linh động hơn pho quyền nọ nhiều. Tại thấy con rắn to giữ thế thủ rất nghiêm mật, chàng ngẫm nghĩ không biết con rắn nhỏ dùng thế công nào mà thắng nổi địch thủ?
Thấy Thừa Chí chăm chú ngẩn cả người ra, Thanh Thanh nghĩ thầm: “Không ngời anh ta lại có tánh trẻ con như vậy.”
Lúc ấy, tên ăn xin vẫn tiếp tục nhai thứ thuốc vàng, nặn thành sợi dây thứ hai, rồi quanh hai vòng dây nữa là ngoài cái vòng dây thứ nhất. Mỗi cái vòng dây cách nhau độ một thước.
Bố trí xong, y lộ vẻ hớn hở, rồi cúi xuống xem hai con rắn đánh nhau. Con rắn nhỏ nhảy xổ vào mấy lần, đều bị khói đỏ đẩy lui. Thừa Chí nghĩ thầm: “Mỗi lần tấn công là con rắn nhỏ dùng một thế công mới. Khói đỏ của con rắn lớn phun ra ngày càng nhạt. Cứ thế này mãi, con to tất phải thua mất!”
Ngờ đâu con rắn to đột nhiên phản công, há mồm nhe răng định đớp con rắn nhỏ. Nhưng con nhỏ lanh lẹ và luồn tránh khôn khéo lắm, nhiều khi nó sắp bị con to cắn được, nhưng con rắn nhỏ tránh sang phải một cái rất lẹ và thoát khỏi nanh vuốt của địch thủ ngay. Thoắt lúc con nhỏ vươn mình lên trên không, con rắn to nhô theo định cắn đuổi con kia nhưng con nhỏ ở trên không mà biết lộn vòng quay đầu lại đâm luôn vào mắt địch thủ. Thế là con rắn to bị mù ngay một mắt.
Thấy con vật đánh nhau hay quá, Thừa Chí không nhịn được bỗng la lớn: “Hay quá” Lúc ấy con rắn to bị thương một mắt chui ngay vào trong động. Lúc ra đã nhanh mà lúc rút lui cũng vậy, chỉ trong nháy mắt, cả một thân hình dài hơn trượng của nó mà đã biệt vô tăm tích rồi. Con rắn nhỏ đuổi tới cửa động, phun hơi vào bên trong.
Thanh Thanh bỗng cảm thấy đầu óc choáng váng, liền kêu lên một tiếng:
– Trời ơi!
Nàng vội năm lấy cánh tay Thừa Chí. Biết nàng vì ham xem hai con vật đánh nhau, đến gần quá, liền nghĩ tới con Băng Thiềm của Hồ Quế Nam tặng cho giải độc rất linh nghiệm cũng may có đem theo trong người, vội lấy ra để vào mồm nàng.
Thanh Thanh hít liền mấy hơi, cảm thấy một hơi lạnh thấu suốt tâm can, bịnh nhức đầu khỏi ngay tức thì.
Trông thấy con Băng Thiềm của Thừa Chí, tên ăn xin trố mắt lên nhìn tỏ vẻ thèm muốn. Bỏ con Băng Thiềm vào túi, Thừa Chí kéo Thanh Thanh lùi lại vài bước, nghĩ thầm: “Tên ăn xin bắt rắn này cũng tinh đời đấy, thoáng trông đã biết con Băng Thiềm của ta là vật quý rồi. Hằng ngày y gần gũi các loại rắn độc mà có con Băng Thiềm phòng thân thì còn gì bằng nữa.”